Các ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm chủ yếu duy trì lạm phát vì tăng trưởng kinh tế bền vững đồng thời góp phần vào sự ổn định chung của hệ thống tài chính. Khi các ngân hàng trung ương thấy cần thiết, họ sẽ can thiệp vào thị trường tài chính theo "Khung chính sách tiền tệ" được xác định. Việc thực hiện chính sách như vậy được giám sát và dự đoán cao bởi các nhà giao dịch ngoại hối muốn tận dụng các biến động tiền tệ.
Ngân hàng Trung ương là các tổ chức độc lập được các quốc gia trên thế giới sử dụng để hỗ trợ quản lý ngành ngân hàng thương mại của họ, ấn định lãi suất ngân hàng trung ương và thúc đẩy sự ổn định tài chính trong cả nước.
Các ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường tài chính bằng cách tận dụng những điều sau đây:
Hoạt động thị trường mở: Hoạt động thị trường mở (OMO) mô tả quá trình các chính phủ mua và bán chứng khoán chính phủ (trái phiếu) trên thị trường mở, với mục đích mở rộng hoặc thu hẹp lượng tiền trong hệ thống ngân hàng.
Tỷ giá ngân hàng trung ương: Lãi suất ngân hàng trung ương, thường được gọi là chiết khấu, hoặc tỷ lệ quỹ liên bang, do ủy ban chính sách tiền tệ đặt ra cho mục đích tăng hoặc giảm hoạt động kinh tế. Điều này có vẻ phản trực giác, nhưng một nền kinh tế quá nóng dẫn đến lạm phát và đây là những gì các ngân hàng trung ương nhắm đến để giữ ở mức vừa phải.
Các ngân hàng trung ương cũng đóng vai trò là người cho vay của phương sách cuối cùng. Nếu một chính phủ có tỷ lệ nợ trên GDP khiêm tốn và không thể huy động tiền thông qua đấu giá trái phiếu, ngân hàng trung ương có thể cho chính phủ vay tiền để đáp ứng tình trạng thiếu thanh khoản tạm thời.
Có một ngân hàng trung ương làm người cho vay của phương sách cuối cùng làm tăng niềm tin của nhà đầu tư. Các nhà đầu tư cảm thấy thoải mái hơn khi các chính phủ sẽ đáp ứng nghĩa vụ nợ của họ và điều này giúp giảm chi phí vay của chính phủ.
Ngân hàng Dự trữ Liên bang hay "Fed" chủ trì loại tiền tệ được giao dịch rộng rãi nhất trên thế giới theo Khảo sát Ngân hàng Trung ương Ba năm một lần, 2016. Hành động của Fed không chỉ có ý nghĩa đối với đồng đô la Mỹ mà còn đối với các loại tiền tệ khác, đó là lý do tại sao hành động của các ngân hàng được quan sát với lãi suất lớn. Fed đặt mục tiêu giá cả ổn định, việc làm tốt tối đa và lãi suất dài hạn vừa phải.
Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) không giống bất kỳ ngân hàng trung ương nào khác ở chỗ nó đóng vai trò là ngân hàng trung ương cho tất cả các quốc gia thành viên trong Liên minh châu Âu. ECB ưu tiên bảo vệ giá trị của đồng Euro và duy trì sự ổn định giá cả. Đồng Euro là đồng tiền được lưu hành nhiều thứ hai trên thế giới và do đó, thu hút sự chú ý của các nhà giao dịch ngoại hối.
Ngân hàng của nước Anh
Ngân hàng Anh đóng vai trò là ngân hàng trung ương của Vương quốc Anh và có hai mục tiêu: ổn định tiền tệ và ổn định tài chính. Vương quốc Anh hoạt động bằng mô hình Twin Peaks khi nói đến việc điều chỉnh ngành tài chính với "đỉnh cao" là Cơ quan Quản lý Tài chính (FCA) và Cơ quan Quản lý Prudential (PRA). Ngân hàng Anh quy định cẩn thận các dịch vụ tài chính bằng cách yêu cầu các công ty đó nắm giữ đủ vốn và có các biện pháp kiểm soát rủi ro phù hợp.
Ngân hàng Nhật Bản
Ngân hàng Nhật Bản đã ưu tiên ổn định giá cả và hoạt động ổn định của hệ thống thanh toán và thanh toán. Ngân hàng Nhật Bản đã giữ lãi suất dưới 0 (lãi suất âm) trong nỗ lực mạnh mẽ để hồi sinh nền kinh tế. Lãi suất âm cho phép các cá nhân được trả tiền để vay tiền, nhưng các nhà đầu tư không được chia để gửi tiền vì điều này sẽ phải chịu một khoản phí.
Các ngân hàng trung ương đã được thành lập để thực hiện nhiệm vụ nhằm phục vụ lợi ích công cộng. Mặc dù trách nhiệm có thể khác nhau giữa các quốc gia, nhưng các trách nhiệm chính bao gồm:
1) Đạt được và duy trì sự ổn định về giá: Các ngân hàng trung ương có nghĩa vụ bảo vệ giá trị đồng tiền của họ. Điều này được thực hiện bằng cách duy trì mức lạm phát khiêm tốn trong nền kinh tế.
2) Thúc đẩy ổn định hệ thống tài chính: Các ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trải qua một loạt các bài kiểm tra căng thẳng để giảm rủi ro hệ thống trong lĩnh vực tài chính.
3) Thúc đẩy tăng trưởng cân bằng và bền vững trong nền kinh tế: Nói chung, có hai cách chính mà một quốc gia có thể kích thích nền kinh tế của mình. Đó là thông qua Chính sách tài khóa (chi tiêu của chính phủ) hoặc Chính sách tiền tệ (can thiệp của ngân hàng trung ương). Một khi các chính phủ đã cạn kiệt ngân sách, các ngân hàng trung ương vẫn có thể đưa ra chính sách tiền tệ để kích thích nền kinh tế.
4) Giám sát, điều tiết tổ chức tài chính: Ngân hàng trung ương có nhiệm vụ điều tiết, giám sát ngân hàng thương mại vì lợi ích công.
5) Giảm thất nghiệp: Ngoài ổn định giá cả và tăng trưởng bền vững, các ngân hàng trung ương có thể quan tâm đến việc giảm thất nghiệp. Đây là một trong những mục tiêu của Cục Dự trữ Liên bang.
Các ngân hàng trung ương điều chỉnh lãi suất ngân hàng trung ương và tất cả các loại lãi suất khác mà các cá nhân phải trải qua về các khoản vay cá nhân, cho vay mua nhà, thẻ tín dụng, v.v., phát sinh từ lãi suất cơ bản này. Lãi suất ngân hàng trung ương là lãi suất tính cho các ngân hàng thương mại muốn vay tiền từ ngân hàng trung ương trên cơ sở qua đêm.
Ảnh hưởng của lãi suất ngân hàng trung ương được mô tả dưới đây với các ngân hàng thương mại tính lãi suất cao hơn mức họ có thể đảm bảo cho ngân hàng trung ương.
Các ngân hàng thương mại cần vay vốn từ ngân hàng trung ương để tuân thủ một hình thức ngân hàng hiện đại được gọi là Ngân hàng dự trữ phân đoạn. Các ngân hàng chấp nhận tiền gửi và cho vay có nghĩa là họ cần đảm bảo rằng họ có đủ tiền mặt để rút tiền hàng ngày, đồng thời cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư cần tiền mặt. tiền gửi. Các ngân hàng tạo ra doanh thu thông qua quá trình này bằng cách tính lãi suất cao hơn cho các khoản vay trong khi trả lãi suất thấp hơn cho người gửi tiền.
Các ngân hàng trung ương sẽ xác định tỷ lệ cụ thể của tất cả các quỹ (dự trữ) của người gửi tiền mà các ngân hàng được yêu cầu dành ra và nếu ngân hàng không đủ điều kiện cho việc này, ngân hàng có thể vay từ ngân hàng trung ương với lãi suất qua đêm, dựa trên số tiền lãi suất ngân hàng trung ương.
Các nhà giao dịch ngoại hối theo dõi chặt chẽ lãi suất ngân hàng trung ương vì chúng có thể có tác động đáng kể đến thị trường ngoại hối. Các tổ chức và nhà đầu tư có xu hướng chạy theo lợi tức (lãi suất) và do đó, những thay đổi trong lãi suất này sẽ dẫn đến việc các nhà giao dịch chuyển đầu tư sang các quốc gia có lãi suất cao hơn .
Các nhà giao dịch ngoại hối thường đánh giá ngôn ngữ mà chủ tịch ngân hàng trung ương sử dụng để tìm manh mối về việc liệu ngân hàng trung ương có khả năng tăng hay giảm lãi suất. Ngôn ngữ được giải thích để đề xuất tăng / giảm tỷ lệ được gọi là Hawkish / Dovish. Những manh mối tinh tế này được gọi là "hướng dẫn chuyển tiếp" và có tiềm năng di chuyển thị trường ngoại hối.
Các nhà giao dịch tin rằng ngân hàng trung ương sắp bắt đầu chu kỳ tăng lãi suất sẽ thực hiện các giao dịch dài hạn có lợi cho loại tiền tệ đó, trong khi các nhà giao dịch dự đoán lập trường dovish từ ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương sẽ cố gắng bán đồng tiền này.
Sự thay đổi lãi suất của ngân hàng trung ương mang lại cho các nhà giao dịch cơ hội giao dịch về sự khác biệt lãi suất giữa các loại tiền tệ của hai quốc gia thông qua một giao dịch mang theo. Thương nhân thực hiện mong muốn của họ để nhận được lãi suất qua đêm để giao dịch một loại tiền tệ năng suất cao so với một loại tiền tệ năng suất thấp.
- Forex Broker là gì và có quan trọng hay không
- Những điều cần thuộc lòng về ngoại hối là gì ?
- Phí qua đêm ngoại hối - tìm hiểu lý do nó quan trọng
- Hợp đồng CFD là gì nhỉ ? Phải biết bạn nhé
Xem thêm những tin tức mới về thị trường Forex tại : https://quanlyngoaihoi.blogspot.com/search/label/tin-tuc-forex
0 Nhận xét